Trước hết phải khẳng định, Việt Nam là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việt Nam cũng là nền kinh tế có độ mở lớn, hội nhập sâu rộng với quốc tế, do đó mọi sự thay đổi trong đó có lĩnh vực năng lượng/điện trên thế giới sẽ có tác động mạnh mẽ tới Việt Nam.
Hơn 2 năm qua, do tác động của đại dịch Covid-19, sự đứt gãy chuỗi cung ứng, xung đột địa chính trị ở một số khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, đặc biệt là cuộc xung đột Nga – Ukraine đã khiến giá năng lượng như than, dầu, khí tăng lên rất cao. Nhiều quốc gia trên thế giới đã rơi vào cảnh thiếu điện, khí đốt; giá điện tăng cao khiến Chính phủ nhiều nước phải kêu gọi sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả.
Các mức giá điện này tại hầu hết quốc gia châu Âu tăng 40-50% so với đầu năm.
Thống kê cho thấy, tính đến tháng 10/2022, giá điện tại Italy là 211,2 Euro/kWh (khoảng 5.714 VNĐ/kWh). Kế đến là Pháp là 178,9 Euro/kWh (khoảng 4.847 VNĐ/kWh); Đức là 157,8 Euro/kWh (khoảng 4.278 VNĐ/kWh); Tây Ban Nha là 127,22 Euro/kWh (khoảng 3.439 VNĐ/kWh) và tại Vương quốc Anh là 136,60 Euro/kWh (khoảng 3.710 VNĐ/kWh).
Tại châu Á, giá điện ở Tokyo (Nhật Bản) tháng 10 cũng tăng gần 27%. Tại Hàn Quốc là 228,96 Won/kWh (khoảng 4.287 VNĐ/kWh). Còn tại Thái Lan, giá điện sinh hoạt đã tăng lên 4,72 baht/kWh (khoảng 3.273 VNĐ/kWh) từ tháng 9/2022.
Theo một thống kê của EVN, năm 2021, theo Quyết định số 648/QĐ-BCT ngày 20/3/2019 của Bộ Công Thương, giá bán lẻ điện bình quân là 1864,44 đồng/kWh (cũng tương đương mức 0,083 USD/kWh), tức là tương đương khoảng 66% so với mức giá điện trung bình của thế giới và cũng chỉ ở mức trung bình thấp so với giá điện bình quân của thế giới (101/147).
Trong khu vực ASEAN, Việt Nam đang là quốc gia có mức giá điện bình quân thấp so với hầu hết các quốc gia trong khu vực. Thậm chí, giá bán lẻ điện của Việt Nam hiện nay chỉ bằng 51% so với Philippines – quốc gia có giá điện cao nhất khu vực (0,172 USD/kW).
Theo đánh giá, trong ASEAN, Lào là nước có giá điện thấp nhất khu vực, tuy nhiên quốc gia này có tới 70% điện năng sản xuất từ thủy điện (giá rẻ) và khoảng 25% từ nhiệt điện than.
Những yếu tố liên quan đến giá điện
Về nguyên tắc, giá điện được tính toán trên cơ sở chi phí của các thông số đầu vào gồm 4 khâu chính: phát điện, truyền tải điện, phân phối – bán lẻ điện, điều hành – quản lý ngành và dịch vụ phụ trợ hệ thống điện.
Tuy nhiên cũng có nhiều yếu tố liên quan có tác động lên giá điện vì để có thể sản xuất và cung ứng điện cần số vốn đầu tư lớn cho hệ thống nguồn và lưới điện, cũng như các dịch vụ liên quan.
Xét 1 cách tổng thể thì Việt Nam vẫn là quốc gia đang phát triển, nhu cầu sử dụng điện tăng cao hơn tăng trưởng GDP. Tính chung cả giai đoạn điện thương phẩm tăng trên 10%/năm. Cụ thể, năm 2009, điện thương phẩm đạt 74,76 tỷ kWh thì năm 2019, tổng điện thương phẩm đạt 209,42 tỷ kWh.
Để đáp ứng nhu cầu điện cho nền kinh tế và sinh hoạt của nhân dân, tổng mức đầu tư xây dựng hệ thống điện trong giai đoạn này liên tục tăng. Nếu như năm 2009, tổng khối lượng đầu tư nguồn và lưới điện của toàn Tập đoàn đạt 45.665 tỷ đồng, thì năm 2019, con số này ước đạt 100.480 tỷ đồng.
Với sự đầu tư mạnh mẽ này, tổng công suất nguồn điện của Việt Nam đã nâng lên từ khoảng 17.000 MW năm 2009 lên 54.850 MW năm 2019 (tăng gần gấp 3 lần).
Báo cáo của EVN cũng cho thấy, tính đến cuối năm 2021, tổng công suất lắp đặt nguồn điện toàn hệ thống đạt 76.620 MW. Trong đó, tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời) là 20.670MW (tăng 3.420MW so với năm 2020) và chiếm tỉ trọng 27%. Quy mô hệ thống điện Việt Nam đã vươn lên đứng đầu khu vực ASEAN về công suất nguồn điện.
Hệ thống lưới điện truyền tải 220-500kV cũng nâng lên từ 11.900 km với dung lượng máy biến áp là 26.500 MVA lên gấp đôi số km đường dây và dung lượng trạm biến áp đạt hơn 100.000 MVA. Trong khi đó lưới điện 110kV và hệ thống điện phân phối đã phủ trên 98% các huyện/xã.
Đặc biệt, trong giai đoạn 2009-2019, ngành điện cũng đã đầu tư hàng chục nghìn tỷ đồng để kéo điện tới các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới hải đảo…giúp cho 100% xã và 99,25% số hộ dân nông thôn cả nước được sử dụng lưới điện quốc gia.
EVN cũng đã tiếp nhận, quản lý vận hành và bán điện cho 11/12 huyện đảo của cả nước. Và hàng năm vẫn phải bù lỗ nhiều trăm tỷ đồng cho việc bán điện dưới giá thành tại các huyện đảo.
Năm 2021, cơ cấu nguồn điện của Việt Nam, nguồn thuỷ điện giá rẻ nhất là thuỷ điện chỉ chiếm 28,5%; tiếp đến là nguồn điện than chiếm khoảng trên 32,2%, (từ 2015 Việt Nam đã phải nhập khẩu than); nguồn điện khí 9,3% và năng lượng tái tạo khoảng 27%. Trong năm 2022, giá điện than đã đạt khoảng 4.000 đồng/kWh, điện năng lượng tái tạo theo giá FIT theo quyết định 11 và 13 về cơ chế khuyến khích từ 2017 (trong thời hạn 20 năm) khoảng trên 2.000 đồng/kWh, cao hơn giá bán điện bình quân hiện hành.
Do việc đầu tư lớn, nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất điện tăng (than, dầu, khí…) cùng những biến động của nền kinh tế khiến chi phí sản xuất kinh doanh của EVN tăng. Theo đó, giá điện cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế để đảm bảo an ninh năng lượng trong thời gian tới.
Nguồn: EVN